Nước đồng bằng không còn vô hạn!

Cập nhật, 09:04, Thứ Ba, 05/04/2016 (GMT+7)

Tọa đàm về “Vấn đề hạn mặn ở ĐBSCL, hiện trạng, tác động, giải pháp” tại Cần Thơ vào sáng 1/4, nhiều nhà khoa học đã cảnh báo điều này, đồng thời cho rằng về lâu dài phải “trả lũ cho đồng bằng”.

Đồng thời, không nên trồng lúa liên tục mà cần chuyển đổi cây trồng khác thích nghi hạn mặn, nhất là bảo vệ cho được phù sa- nguồn tài nguyên nếu mất sẽ không có cơ may phục hồi.

Lúa “khát” nước. Nhiều cánh đồng lúa ở Vũng Liêm sèo bông, thất thu.
Lúa “khát” nước. Nhiều cánh đồng lúa ở Vũng Liêm sèo bông, thất thu.

Túi nước ngọt “biến dạng”

Theo Ths. Nguyễn Hữu Thiện- chuyên gia độc lập nghiên cứu về sinh thái ĐBSCL, thiên nhiên “thiết kế” ĐBSCL rất tài tình với 3 túi nước có thể ví như 3 trái tim điều hòa mạch máu Mekong gồm Tonle Sap (biển Hồ, Campuchia) và 2 vùng trũng tự nhiên ở Việt Nam là Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên.

Ba túi này cất giữ bớt nước để mùa lũ hiền hòa hơn rồi từ từ nhả ra để giúp sông Tiền, sông Hậu đẩy mặn trong mùa khô.

Thế nhưng, khoảng 20 năm trở lại đây, 2 túi nước ở Việt Nam đã được xây dựng đê bao khép kín để canh tác 3 vụ lúa/năm.

Nước lũ về không vào được bên trong túi nước đã gây ngập lụt các vùng bên dưới và nhanh chóng thoát ra biển. Hiện khả năng trữ lũ của tứ giác Long Xuyên từ 9,2 tỷ m3 đã giảm còn 4,5 tỷ m3 nên cũng giảm lượng nước hỗ trợ các dòng sông đẩy mặn, góp phần làm trầm trọng tình trạng hạn mặn hiện nay.

Liên quan đến việc Trung Quốc xả nước “cứu” hạn mặn ĐBSCL, PGS, TS. Lê Anh Tuấn- Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (ĐH Cần Thơ) nhận định: “rất khó đẩy mặn ở ĐBSCL dù phía Trung Quốc xả đập”.

Dung tích hồ Cảnh Hồng (Trung Quốc) khoảng 249 triệu m3 nước, nếu xả 2.190 m3/giây như phía Trung Quốc hứa, thì chỉ khoảng 30 giờ là hồ cạn, nên chắc chắn không có chuyện xả liên tục mà chỉ có thể xả gián đoạn.

Chưa kể dù cho Trung Quốc có xả đúng lượng cam kết cũng không có tác dụng đáng kể. Vì để đẩy mặn, ĐBSCL cần lượng nước hơn 10.000 m3/giây.

PGS, TS. Lê Anh Tuấn cho hay, hiện tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) cũng có khô hạn, dòng chảy từ đập trên về ĐBSCL hơn 4.000km, phải qua Thái Lan, Lào, Campuchia và các vùng trũng, dòng nhánh, đất ngập nước sẽ tiêu hao đáng kể lượng nước khi về đến ĐBSCL. Trong khi đó, Thái Lan cũng đang khẩn trương sử dụng các trạm bơm, gia tăng việc lấy nước để giải hạn.

Khi nghe Trung Quốc xả nước, nông dân đã ùn ùn trồng lúa Hè Thu. Thông tin từ các địa phương đã có 1.000ha được gieo sạ, trong đó đã có nhiều diện tích mạ đã bị chết. “Chúng ta đang rất bị động về nguồn nước trước các nước trên thượng lưu.

Viện Khoa học thủy lợi miền Nam thông tin trong tháng 4 triều rút bớt, một số khu vực ven biển sẽ có nước ngọt.

Đây là thông tin tốt, tuy nhiên, chi cục thủy lợi các tỉnh nên tính toán cụ thể nước ngọt có ở khu vực nào, trữ lượng cỡ bao nhiêu để khuyến cáo, cảnh báo cho người dân. Tránh để lặp lại tình trạng người dân đổ xô xuống giống khi chưa có nước ngọt để rồi tiếp tục thiệt hại.”- PGS. TS. Lê Anh Tuấn đưa ra lời khuyên.

Mỗi mét khối nước tạo ra bao nhiêu tiền?

Giải pháp lâu dài trong sản xuất, nhiều chuyên gia đề nghị cách tốt nhất là dựa vào dự báo để tránh thiệt hại, thay đổi lịch thời vụ, thay đổi phương thức canh tác phù hợp tình hình.

TS. Dương Văn Ni- Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (ĐH Cần Thơ) cho rằng, về lâu dài phải “trả lũ cho đồng bằng”, nhưng phải theo đặc thù từng vùng, từng thời điểm hợp lý.

“Ví dụ xả nước để trồng một vụ ấu giữ phù sa, cho đất nghỉ ngơi, thay vì trồng tiếp lúa...”. Cụ thể việc chuyển đổi cây gì thích hợp, TS. Dương Văn Ni cho biết, mấy năm trước đã thử nghiệm mô hình trồng sen ở Đồng Tháp, sen phát triển tốt, người dân bán được 70.000 đ/kg hạt nên phấn khởi vô cùng.

Thế nhưng, qua năm sau rớt giá chỉ còn 10.000 đ/kg. Nguyên nhân, theo ông là “do sự đầu tư không đồng bộ”. Ông nói: “Thực tế, khoảng 40 năm trở lại đây, toàn bộ tập trung cho cây lúa. Còn nghiên cứu, phần lớn cũng chỉ về giống, nước... mà thiếu công trình nghiên cứu tổng hợp”.

Cho rằng trong 70% nước cho nông nghiệp thì có tới 80% trong số đó dùng cho cây lúa là phí phạm, PGS, TS. Lê Anh Tuấn cho rằng, thay vì làm lúa liên tục nên chuyển sang trồng cây khác ít tiêu thụ nước hơn. Có thể làm mô hình lúa- tôm ở vùng nước lợ, vùng nước mặn thì nuôi tôm sú…

“Phải làm cho người dân hiểu rằng nước ở ĐBSCL không phải là vô hạn nữa. Đánh giá bây giờ không phải ở chỗ tạo ra bao nhiêu tấn lúa/ha nữa mà là mỗi mét khối nước tạo ra bao nhiêu tiền”- PGS. TS Lê Anh Tuấn nói.

Nông dân không nên xuống giống vụ Hè Thu vội vàng khi chưa có nguồn nước ngọt ổn định.
Nông dân không nên xuống giống vụ Hè Thu vội vàng khi chưa có nguồn nước ngọt ổn định.

Ths. Nguyễn Hữu Thiện cũng cảnh báo: “Chúng ta cứ cố sản xuất thật nhiều lúa để xuất khẩu giá rẻ thì mai sau rất có thể đời con cháu sẽ không có đủ lúa mà ăn vì đất đã bị vắt kiệt sức rồi”.

Đề xuất cho từng vùng sản xuất cụ thể, Ths. Nguyễn Hữu Thiện cho rằng, vùng mặn hẳn thì phát triển bền vững nhất vẫn là trồng rừng, bởi rừng có thể che chở cho tôm và chống lại tăng nhiệt độ cũng như điều kiện biến đổi khí hậu, nhưng có nhược điểm là cần diện tích lớn, còn vùng 6 tháng ngọt- 6 tháng mặn thì làm tôm- lúa.

Hình thức canh tác này có cái lợi là lúa sau khi thu hoạch sẽ trở thành thứ cung cấp dinh dưỡng cho tôm, và tôm phát triển cũng cung cấp dinh dưỡng cho lúa, thêm vào đó làm lúa- tôm thì ít sử dụng thuốc trừ sâu ở lúa.

Còn vùng ngọt hoàn toàn thì trồng lúa. Tuy nhiên, Nhà nước phải giúp người dân quy hoạch sử dụng đất và có biện pháp quản lý chế tài rõ ràng.

 

Bài, ảnh: HOÀNG MINH